Pháp luật Việt Nam xác nhận năng lực trách nhiệm hình sự dựa trên các cơ sở:
Thứ nhất, phải là người có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi. (Năng lực điều khiển hành vi ở đây được hiểu đầy đủ là năng lực kiềm chế và năng lực lựa chọn cách xử sự trong những sự việc cụ thể). Năng lực này cũng như độ tuổi, để có năng lực này không phụ thuộc vào quy định của pháp luật. Do vậy, năng lực này có thể được coi là năng lực “tự nhiên” của con người.
Thứ hai, là người có độ tuổi phù hợp với quy định của pháp luật. Độ tuổi để có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi và tuổi chịu trách nhiệm hình sự là khác nhau nhưng có liên quan mật thiết với nhau. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định không thể thấp hơn tuổi có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi. Do vậy, luật hình sự chỉ cần xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự và được hiểu khi đủ tuổi đó thì chủ thể mặc nhiên được coi là có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi, trừ trường hợp cá biệt do mắc bệnh dẫn đến hoạt động của bộ não bị rối loạn nên không có năng lực đó.
Luật hình sự Việt Nam xác định người có năng lực trách nhiệm hình sự là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 Bộ luật Hình sự) và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi. (Điều 21 Bộ luật Hình sự gọi là tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự). Điều 21: Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự:
“Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Người không có năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi do mắc bệnh được luật hình sự Việt Nam gọi là người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Như vậy, trong luật hình sự Việt Nam, tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự được dùng để chỉ tình trạng mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi do mắc bệnh mà khi không ở trong tình trạng đó thì người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được coi là có năng lực trách nhiệm hình sự.
Ở đây cần phân biệt người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (theo Điều 21 Bộ luật Hình sự) với người không có năng lực trách nhiệm hình sự. Người không có năng lực trách nhiệm hình sự có thể là người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (theo Điều 21 Bộ luật Hình sự) hoặc là người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự (theo Điều 12 Bộ luật Hình sự).
Điều 21 Bộ luật Hình sự quy định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là tình trạng của người do “… mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình”. Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người không có (hoặc không còn) năng lực nhận thức liên quan đến hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà họ đã thực hiện, là người không có năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện là đúng hay sai, nên làm hay không nên làm. Như vậy, họ cũng không thể có được năng lực kiềm chế thực hiện hành vi đó. Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự còn có thể là người tuy có năng lực nhận thức, tuy có khả năng đánh giá được tính chất xã hội của hành vi của mình nhưng do bệnh lý không thể kiềm chế được việc thực hiện hành vi đó.
Việc xác định dấu hiệu này đều thuộc nội dung của cơ quan có chức năng giám định tâm thần. Kết luận giám định tâm thần không chỉ xác định người thực hiện hành vi có tính chất gây thiệt hại cho xã hội có mắc bệnh tâm thần và có trong trạng thái bệnh khi thực hiện hành vi đó hay không mà còn xác định ảnh hưởng của bệnh đã mắc đối với năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của người bệnh.
Bên cạnh tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, luật hình sự Việt Nam còn thừa nhận trường hợp tình trạng hạn chế năng lực trách nhiệm hình sự. Đây là trường hợp do mắc bệnh nên năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi của chủ thể bị hạn chế. Người này không thuộc trường hợp không có điều kiện để có lỗi, nhưng tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế có ảnh hưởng nhất định đến mức độ lỗi. Lỗi của họ cũng là lỗi hạn chế và do vậy, luật hình sự Việt Nam coi tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tình tiết này được quy định cùng với những tình tiết khác tại Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Pháp luật nước ta còn quy định người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự thì “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”.
Theo đó, những người dưới 14 tuổi hoặc mặc dù từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi nếu không phạm vào các tội được liệt kê tại các điều luật quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự nêu trên thì không phải chịu trách nhiệm hình sự do…chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.