Nghĩa vụ dân sự được quy định tại Phần thứ ba Bộ Luật dân sự năm 2015, trong đó quy định về căn cứ phát sinh và đối tượng của nghĩa vụ; về thực hiện nghĩa vụ; về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; quy định về trách nhiệm dân sự và việc chấm dứt nghĩa vụ. Bộ luật dân sự năm 2015 có một số sửa đổi, bổ sung liên quan đến các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ:
Thứ nhất, Bộ luật dân sự năm 2015 bổ sung thêm hai biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản.
Thứ hai, Bộ Luật dân sự năm 2015 bổ sung một số quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong tương lai (Điều 294) các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm (Điều 299 đến 307) hoặc việc ghi nhận các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh vào quy định về phạm vi bảo lãnh (Điều 336). Các quy định này hiện cũng đang được quy định tại Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 11/2012/NĐ-CP), tuy nhiên có một số nội dung tại BLDS 2015 khác với quy định tại Nghị định 163 và Nghị định 11. Ví dụ quy định về giao tài sản bảo đảm để xử lý, Nghị định 163 và Nghị định 11 quy định “Bên giữ tài sản bảo đảm phải giao tài sản đó cho người xử lý tài sản theo thông báo của người này; nếu hết thời hạn ấn định trong thông báo mà bên giữ tài sản bảo đảm không giao tài sản thì người xử lý tài sản có quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo quy định tại khoản 2 Điều này để xử lý hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết”. Tuy nhiên, Điều 301 Bộ Luật dân sự năm 2015 không quy định về việc thu giữ tài sản, chỉ quy định “Trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”; hoặc quy định về định giá tài sản bảo đảm, Nghị định 163 và Nghị định 11 chỉ quy định việc định giá do các bên thỏa thuận. Bộ luật Dân sự năm 2015 bổ sung thêm nội dung “trường hợp không có thỏa thuận thì tài sản được định giá thông qua tổ chức định giá tài sản”.
Thứ ba, Về thứ tự ưu tiên thanh toán, Bộ luật dân sự năm 2005 quy định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm được xác định căn cứ theo thứ đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc theo thứ tự xác lập giao dịch bảo đảm (Trong trường hợp một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự mà các giao dịch bảo đảm đều không có đăng ký).
Tại Bộ luật dân sự năm 2015, thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận tài sản bảo đảm được xác định căn cứ theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba hoặc thứ tự xác lập biện pháp bảo đảm. Biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm (thế chấp tài sản, cầm cố tài sản trong trường hợp tài sản nhận cầm cố là bất động sản) hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm (cầm cố tài sản đối với các tài sản khác).
Theo đó, thứ tự ưu tiên thanh toán được quy định tại Điều 308 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:
“1. Khi một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm được xác định như sau:
a) Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng;
b) Trường hợp có biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba và có biện pháp bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba được thanh toán trước;
c) Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập biện pháp bảo đảm.
2. Thứ tự ưu tiên thanh toán quy định tại khoản 1 Điều này có thể thay đổi, nếu các bên cùng nhận bảo đảm có thỏa thuận thay đổi thứ tự ưu tiên thanh toán cho nhau. Bên thế quyền ưu tiên thanh toán chỉ được ưu tiên thanh toán trong phạm vi bảo đảm của bên mà mình thế quyền”.
Thứ tư, Bộ luật dân sự năm 2015 cũng bổ sung quy định liên quan đến việc xử lý tài sản thế chấp trong các trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất (Điều 325, 326), cụ thể:
(i) Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì tài sản được xử lý bao gồm cả tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
(ii) Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng đất trong phạm vi quyền, nghĩa vụ của mình; quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp trong mối quan hệ với chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được chuyển giao cho người nhận chuyển quyền sử dụng đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
(iii) Trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đồng thời là người sử dụng đất thì tài sản được xử lý bao gồm cả quyền sử dụng đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
(iv) Trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất không đồng thời là người sử dụng đất thì khi xử lý tài sản gắn liền với đất, người nhận chuyển quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng đất trong phạm vi quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được chuyển giao, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.